Luật Quốc phòng năm 2018 được Quốc hội Khóa XIV đã thông qua ngày 25/6/2018, tại Kỳ họp thứ 5 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019. Luật Quốc phòng năm 2018 có 7 chương, 40 điều, giảm 2 chương và 11 điều so với Luật Quốc phòng năm 2005.
Đây là Luật rất quan trọng, chi phối toàn bộ hệ thống pháp luật về quốc phòng, tác động đến hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Luật Quốc phòng năm 2018 đã thể chế đầy đủ quan điểm, đường lối của Đảng về quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc; đồng thời đã cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, thống nhất với hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh và pháp luật liên quan. Đặc biệt, Luật có nhiều quy định mới, tạo khuôn khổ pháp lý quan trọng để tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, hình thái chiến tranh tương lai có nhiều thay đổi, phát triển mới, cụ thể:
- Bổ sung chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, công nghiệp quốc phòng, an ninh phù hợp với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
- Quy định mới về công nghiệp quốc phòng, an ninh, không tách rời nhau; phát triển quốc phòng, an ninh phải trong một chỉnh thể thống nhất, do Nhà nước quản lý, điều hành, phù hợp với chủ trương, quan điểm của Đảng, nhất là Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Điều 68 Hiến pháp năm 2013.
- Bổ sung quy định về phòng, chống chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng.
- Quy định mới về phòng thủ quân khu.
- Quy định khu vực phòng thủ Thủ đô Hà Nội phù hợp với tính chất nhiệm vụ đặc thù của Thủ đô Hà Nội, phù hợp với Luật thủ đô.
- Bổ sung quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, nhất là bình đẳng giới, phù hợp với Điều 14 của Hiến pháp năm 2013.
- Bổ sung quy định xây dựng tiềm lực đối ngoại vào trong xây dựng tiềm lực của khu vực phòng thủ.
- Quy định đầy đủ, toàn diện về trách nhiệm, quyền hạn của Bộ Quốc phòng trong việc cho ý kiến, tham gia thẩm định đối với việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án của các bộ, ngành, địa phương phù hợp với Luật quy hoạch, Luật đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan. Đồng thời, quy định một số dự án đầu tư xây dựng ở địa bàn trọng điểm về quốc phòng phải có tính lưỡng dụng, sẵn sàng chuyển sang phục vụ nhu cầu quốc phòng.
- Bổ sung quy định về Ban Chỉ huy quân sự (CHQS) bộ, ngành Trung ương, để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Ban CHQS bộ, ngành Trung ương; địa phương có cơ quan thường trực công tác quốc phòng là cơ quan quân sự địa phương cùng cấp.
- Bổ sung quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân trong thực hiện Lệnh thiết quân luật, giới nghiêm để phù hợp với Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
- Bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ Quân đội nhân dân, nhằm luật hóa vấn đề này.
- Bổ sung quy định về bảo đảm nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, tài sản phục vụ quốc phòng, bảo đảm phục vụ quốc phòng trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại theo hướng toàn diện hơn, thống nhất với hệ thống pháp luật có liên quan.
- Bổ sung quy định về nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng trong duy trì an ninh trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, các cửa khẩu, hải đảo, vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để thống nhất với Luật biên giới quốc gia, Luật an ninh quốc gia, Luật công an nhân dân.
- Bổ sung quy định về nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ, đối ngoại quốc phòng, kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng; quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về quốc phòng, phòng thủ dân sự.
- Luật hóa một số quy định tại một số văn bản dưới luật về quốc phòng, an ninh, phòng thủ dân sự vào trong Luật quốc phòng (Nghị định số 116/2006/NĐ-CP, Nghị định số 32/2009/NĐ-CP, Nghị định số 152/2007/NĐ-CP...).